Dậy thì là thời điểm quan trọng đánh dấu sự phát triển và trưởng thành về thể chất, giới tính và khả năng sinh sản. Những thay đổi về cơ thể thường kéo theo những thay đổi về tâm lý và tình cảm, đây thực sự là một thử thách không chỉ cho bản thân vị thành niên mà còn cho cả cha mẹ. Dấu hiệu quan trọng nhất đối với người thiếu nữ đó là xuất hiện kinh nguyệt lần đầu tiên (menarche), đôi khi quá trình rụng trứng vẫn có thể xảy ra chậm hơn sau đó một hoặc vài năm (Tanner, 1978), đối với nam là hiện tượng xuất tinh hoặc mộng tinh lần đầu tiên.
Trước đây tuổi dậy thì bắt đầu muộn hơn thời nay. Chẳng hạn, trong những năm 80, trung bình tuổi dậy thì ở nữ là 15,5 (Fish, 1988) và quá trình chuyển biến về mặt xã hội từ thiếu niên sang thành niên được diễn ra ngay sau đó. Tuổi dậy thì có xu hướng ngày càng sớm hơn, có thể do ảnh hưởng bởi các yếu tố dinh dưỡng, giống nòi, văn hoá xã hội...
ở Việt Nam, theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia: tuổi dậy thì hiện nay phổ biến ở trẻ gái là 11 tuổi ± 5 tháng, trẻ nam là 13 tuổi ± 2 tháng. Mỗi cá nhân có một biểu thời gian riêng, nam hay nữ cũng vậy, vì thế có những biến thiên và thời gian, song trình tự chín muồi giới tính chỉ là một.
Theo điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) năm 2003, tuổi trung bình có kinh nguyệt lần đầu ở nữ là 14,5 tuổi và mộng tinh/xuất tinh ở nam là 15,6 tuổi. Nữ thường bắt đầu dậy thì sớm hơn nam. Ví dụ: ở độ tuổi 13 chỉ có 3,3% nam có hiện tượng xuất tinh so với 17,3% thiếu nữ có kinh nguyệt lần đầu. Vào độ tuổi 15 thì có 79% thiếu nữ đã có kinh nguyệt và 50% nam nam giới xuất hiện xuất tinh/mộng tinh. Có sự khác biệt rất nhỏ giữa thời điểm xuất hiện mộng tinh giữa nam thanh niên thành thị và nông thôn (15,4 tuổi so với 15,7 tuổi), sự khác về tuổi trung bình xuất hiện kinh nguyệt rõ hơn ở nữ ( 14 tuổi ở nữ thanh thiếu niên thành thị so với 14,6 tuổi ở nữ thanh thiếu niên nông thôn), sự khác biệt này có thể do điều kiện dinh dưỡng ở nông thôn còn hạn chế hơn.
Mặc dù phần lớn thanh thiếu niên chưa có quan hệ tình dục ở lứa tuổi này, nhưng tác động tâm lý xã hội do các thay đổi của cơ thể có thể là những thách thức thực sự. Nếu không được chuẩn bị sẵn về tinh thần và có đủ các thông tin thì những thay đổi rất bình thường và phổ biến này ở lứa tuổi vị thành niên có thể gây những hoang mang không cần thiết. Đối với một số nền văn hoá, hiện tượng dậy thì được đón mừng như là một cột mốc trọng đại đánh dấu một chặng đường mới trong cuộc đời thanh thiếu niên.
Sự chín muồi tính dục ở nam
Dấu hiệu đầu tiên báo hiệu tuổi dậy thì ở nam chính là việc tinh hoàn và bìu trở nên phát triển nhanh, và tiếp sau đó khoảng một năm đến lượt dương vật phát triển. Thời kỳ này lông mu cũng bắt đầu xuất hiện, tất nhiên là vẫn còn sớm để khẳng định sự phát triển sinh dục hoàn toàn. Sự kiện xuất tinh lần đầu có thể xuất hiện ở tầm 11 tuổi hoặc chậm hơn ở lứa tuổi trước 16. Quá trình xuất tinh lần đầu thường xảy ra ở thời kỳ phát triển chiều cao mạnh mẽ với biểu hiện thủ dâm hoặc “mộng tinh” và thường không chứa những tinh trùng đủ khả năng thụ tinh (Money, 1980).
Vỡ giọng cũng là một đặc điểm dùng để mô tả các nam thiếu niên ở giai đoạn này. Chất giọng trung thực được hình thành trong các giai đoạn sau của quá trình thay đổi ở tuổi dậy thì. Tuy nhiên, đối với số đông, chất giọng được hình thành một cách từ từ chứ không tạo một mốc nào cả trong quá trình trưởng thành (Tanner, 1978).
Sự chín muồi tính dục ở nữ
Thường những “chũm cau trên ngực” là dấu hiệu đầu tiên cho biết sự đổi thay bước vào tuổi dậy thì. Tử cung và âm đạo phát triển kéo theo việc tăng kích cỡ của âm đạo, âm vật. Kỳ kinh nguyệt đầu tiên (menarche) là dấu hiệu kịch tính và khái quát nhất về một vai trò mới của bé gái. Kinh nguyệt lần đầu thường xuất hiện khi cơ thể đã có chiều cao tương đối và có lượng mỡ nhất định. Kinh nguyệt lần đầu có thể xuất hiện lúc 9,5 tuổi và có thể lúc 16,5; ở Mỹ độ tuổi trung bình xuất hiện kinh nguyệt lần đầu ở nữ là 12,5; ở các nước khác trên thế giới độ tuổi này có phần muộn hơn: ở Tiệp Khắc (trước đây) là 14, ở Kenia là 16 (Power, Hauser & Kilner, 1989). Quá trình kinh nguyệt ở các trẻ nữ rất khác nhau: chu kỳ thường dao động trong khoảng 1 tháng, phần lớn các trường hợp là không đều đặn, quá trình rụng các trứng đã chín thường chưa xảy ra (Tanner,1978), cho nên không coi những trẻ này là vô sinh. Kinh nguyệt thường kéo theo những cơn đau quặn bụng ở một nửa số trẻ (Wldholm,1985). Sự căng thẳng trước kỳ kinh nguyệt là hiện tượng bình thường và thường gây nên nỗi khó chịu, trầm cảm, ngực căng và mẫn cảm.
Bảng dưới đây sẽ tóm tắt những sự thay đổi trong cơ thể gắn với thời kỳ dậy thì của trẻ nam và nữ:
Sự thay đổi ở trẻ nữ | Sự thay đổi ở trẻ nam |
Phát triển chiều cao | Phát triển chiều cao |
Phát triển cân nặng | Phát triển cân nặng |
Phát triển vú | Phát triển vú |
Phát triển lông mu | Phát triển lông mu |
Thay đổi giọng nói | Giọng nói trở nên trầm |
Tăng tiết mồ hôi và chất nhờn | Tăng tiết mồ hôi và chất nhờn |
Da mỡ màng, mọc trứng cá trên mặt | Da mỡ màng, mọc trứng cá trên mặt |
Ngực, vai và các cơ không phát triển như nam | Ngực và vai phát triển, các cơ rắn chắc |
Hông mở rộng, vòng eo hẹp | Lông trên cơ thể và râu phát triển |
Đùi trở nên thon | |
Tử cung và buồng trứng to ra | |
Bộ phận sinh dục ngoài phát triển | Dương vật và tinh hoàn phát triển |
Sự rụng trứng xẩy ra, bắt đầu có kinh nguyệt | Bắt đầu xuất tinh |
Các tuyến nội tiết phát triển | Các tuyến nội tiết phát triển |
Ngừng phát triển bộ xương sau khi hình thể đã hoàn thiện | Ngừng phát triển bộ xương sau khi hình thể đã hoàn thiện |
TS. Cao Vũ Hùng